Ngày gia đình tôi quyết định khăn gói vào Nam lập nghiệp theo chính
sách kinh tế mới của Nhà nước, bỏ lại sau lưng làng xóm tiêu điều sau
mùa lụt, năm đó tôi mới lên tám. Giờ tôi hai mươi.
Ở cái tuổi mà lẽ ra đã phải trở thành người tự lập ấy, tôi vẫn như con sóc nâu tung tăng. Lần nào về, nội cũng bảo chỉ thấy tôi cao tồng ngồng mà chẳng khôn ra tẹo nào. Tôi vẫn như xưa, còn nội tôi thì khác nhiều. Tóc nội ngày một giống tóc bà tiên trong những câu chuyện cổ tích ngày xưa nội kể. Nội vẫn nhai trầu như trước.
Đó là thói quen mà tất cả những người già quê tôi không bao giờ bỏ được. Nhìn miệng nội nhai trầu bỏm bẻm, móm mém vẻ khó nhọc, tôi thấy thương nội nhiều. Tôi 32 chiếc răng, nội chỉ còn duy nhất một chiếc. Tôi cao hơn, vai rộng hơn, còn lưng nội còng xuống vì gánh nặng cuộc đời.
Hai mươi tuổi, nội gánh ba tôi chạy giặc trong chiếc thúng cỏn con với vô khối đồ đạc. Năm đó ba còn chưa biết nói. Cả tuổi thanh xuân nội gánh gạo tiếp tế cho bộ đội tận trong rừng. Năm lần bị bắt, nội chọn im lặng trước những trận đòn roi tra khảo của giặc. Giờ nội bảy mươi, vẫn như mấy mươi năm trước, gánh xôi khúc buổi sáng đi khắp nẻo đường làng, gánh rau muống chợ chiều chẳng mấy khi đắt đỏ. Lần nào ba mẹ gửi tiền về để nội tiêu, khỏi vất vả gánh gồng, nội lại bảo: “Để tiền đó cho con bay ăn học”.
Quê nội của tôi còn nghèo lắm, điện mới về đến thị xã thôi, còn cái làng nhỏ bé cách xa huyện này vẫn đèn dầu chờ sáng. Tôi thích đứng thật xa nhìn những con sâu róm đen và to như ngón tay cái bò loe ngoe ở bụi tre sau nhà. Thích nghe con dế kéo bài ca quanh quẩn đống rơm. Tôi muốn được đi chùa làng cùng nội. Ngôi chùa cổ kính, mái ngói nâu cong cong, tường đá rêu phong nằm cạnh gốc đa cổ thụ. Phía trước cửa chùa có một mảnh vườn trồng rất nhiều rau.
Theo lời nội kể thì vào mùa xuân chùa đẹp hơn nhiều vì mảnh vườn của chùa nở vàng hoa cải, cộng thêm sắc hồng của cây đào mà sư cụ trồng trước lúc qua đời. Mỗi lần đến đó, nội ngồi trước Phật Thích Ca Mâu Ni lần tràng hạt, còn tôi thì leo cây đa cùng mấy đứa con nít mà hồi bằng tuổi chúng, tôi cũng thử leo đôi ba lần nhưng bao giờ cũng chỉ leo lên được đến nửa thân cây.
Có lần nội gọi bọn trẻ con lại gửi gắm tôi cho chúng. Nội bảo tôi theo chúng để học bơi, kết quả là sau nửa tháng và vài lần chết hụt và cái bụng trương phình nước, tôi cũng bơi được đến đám sen mà trước đó muốn có vài bông cắm trên bàn thờ ông nội, tôi phải dùng thuyền ra hái.
Hí hửng về khoe nội, nội xoa đầu tôi cười hồn hậu: “Thế cháu muốn nội thưởng gì nào?”. Hỏi thế chứ nội biết món khoái khẩu nhất của tôi là khoai khô bung với đỗ đen. Đó là chưa kể những con muôm muỗm nướng béo ngậy mà tôi mê tít. Cứ năm nào tôi về muộn, khi lúa ngoài đồng đã gặt xong là tôi lại tiếc đứt ruột cái món đặc sản ấy. Nội kể rằng ngày xưa ba tôi cũng thích nhất món này, cả những ngọn đòng đòng ngọt lịm nữa. Có một lần ba ăn trộm đòng đòng ở ruộng bị người ta bắt được.
Về nhà còn bị nội cho một trận nhớ đời. Tôi thì chẳng có cơ hội ấy. Khi lúa vào thì con gái, đồng loạt trổ đòng thì tôi đang ngập đầu ngập cổ với bài vở tận trong Nam. Và khi hè đến, tôi về thì ruộng lúa còn trơ những gốc rạ cuối mùa.
Tôi nhớ mỗi lần mình về, nội hay dắt tôi qua chơi nhà hàng xóm. Nhà hàng xóm có đứa con gái đen nhẻm đen nhèm nhìn tôi với đôi mắt hình dấu hỏi. Nội nói nó là đứa giỏi câu cá nhất làng, hơn cả những thằng con trai cỡ tuổi đó.
Và chắc chắn với tôi, nó là sư phụ. Nội lại nhờ nó dẫn tôi đi câu ở khúc sông chảy qua chân đồi của làng. Chiến lợi phẩm đầu tiên của tôi là một con cá gì chẳng rõ, cũng to to. Đem về đưa nội nấu riêu với chuối xanh, nội bỏ thêm mấy cọng thìa là thơm phức. Tối ấy nội gọi con bé qua nhà ăn cơm. Nó ngại nhưng vẫn qua, xưng “em” và gọi tôi bằng “anh” ngọt xớt. Ừ, theo lời nội thì nó ít hơn tôi một tuổi, gọi bằng anh xưng em cũng phải!
Có năm tôi về quê nội muộn một chút khi hè đã trôi qua quá nửa, em biên thư cho tôi, những bức thư còn cả mùi cá tanh nồng, mùi bùn ngai ngái, có xác con chuồn chuồn kim em ép trong thư. Em giục tôi về chơi, em nói nội mong tôi nhiều lắm. Và tôi về không biết vì em hay vì nhớ nội? Cũng có thể tôi về vì muốn biết: Em có mong tôi không?!
Khi tôi thiu thiu ngủ, nội hỏi giọng rất khẽ: “Nó lấy chồng, con biết rồi chứ?”. Thấy tôi không đáp, nghĩ rằng tôi đã ngủ nên nội lại lọ mọ đi ngâm gạo nếp chuẩn bị cho nồi xôi khúc sáng mai. Đêm ấy tôi mơ giấc mơ lạ. Giấc mơ có dáng ai quen thuộc trên mặt nước của khúc sông cũ. Sông vàng ánh trăng khuya, có ai đó buông mồi xuống câu, dáng quen nhòe đi như là nước mắt… Thức dậy, tôi giật mình vì đôi mắt ướt. Hình như tôi khóc…!
Trời mờ sương, tôi gánh chõ xôi cùng nội đi khắp đường làng. Tôi 20 tuổi, lưng dài vai rộng nhưng chẳng bằng nội. Tôi mới gánh được nửa đường đã mệt phờ. Tự hỏi mấy mươi năm với cái gánh nặng này, nó đã lấy đi bao nhiêu sinh lực của nội? Đàn bà con gái quê nội quanh năm gồng gánh – lo toan, sẽ có bao giờ được hạnh phúc khi cái nghèo, cái khổ vẫn cứ rịt lấy họ?
Trở về, ngang qua nhà hàng xóm, chẳng dám nhìn vào. Mà cũng có còn ai nữa đâu, dù nhìn vào đã chắc gì bắt gặp một nụ cười quen thuộc – hiền và thương thật thương. Em lấy chồng rồi, cô dâu mười chín tuổi!
Buổi trưa, khi nội còn ngồi ở nhà chờ cơm thì tôi lang thang trên khúc sông cũ. Có mấy đứa nhỏ đang ngồi buông câu. Giỏ của chúng chưa có con cá nào. Chúng bảo tôi: “Sông bây giờ hiếm cá lắm…”. Chợt nhận ra có một lúc nào đấy tôi đã nhầm: “Hình như khúc sông ấy chẳng hết cá bao giờ”.
Tôi đi qua vùng đồi cỏ may, chẳng gặp ai trên ấy. Đồi hoang vắng như chưa từng có dấu chân của tôi và của em nữa. Đến chỗ đám sen, ngần ngại nhìn chiếc thuyền đã mục, lại chẳng dám bơi. Lâu quá rồi tôi không tập nên… quên. Nhớ mùa sen năm ngoái trước lúc lên tàu về lại miền Nam, em tặng tôi cả một ôm sen hồng. Tàu đông người, không có chỗ để nên tôi bỏ bó sen dọc đường. Giờ, chợt tiếc…
Chiều, tôi cùng nội lên chợ với gánh rau muống hơi già vì đã qua đợt mưa rào mà nội hái không kịp. Bất ngờ gặp em trong phiên chợ chiều thưa người. Nhìn giỏ cá của em ít ỏi vài con. Chẳng biết đã bán được nhiều hay chưa hay chỉ có bấy nhiêu thôi? Tôi chào em, câu chào theo đúng phong cách của tôi, thật lòng, nhưng sáo rỗng:
- Em khỏe không? Hạnh phúc chứ?
Em nhoẻn miệng cười mà đôi mắt buồn rười rượi. Rồi em kéo sụp vành nón lá che con mắt bầm tím khi thấy tôi có vẻ để ý đến nó.
Đằng kia, nội đang gọi tôi đến để giới thiệu với mấy chị bán hàng bên cạnh. Khó khăn lắm tôi mới nói được với em câu chào tạm biệt…Tạm biệt em. Tạm biệt một thời vụng dại. Tạm biệt cô bé ngang bướng nhưng dễ khóc nhè vì những chuyện cỏn con. Em vấp cục đá, ngã đau. Ừ, thương! Nhưng tôi sẽ chẳng cõng em về như những ngày xưa cũ. Trời chiều ươm đầy nắng nhạt. Chiều ở quê nội vụt qua nhanh như một cơn gió.
Muộn mất rồi còn đâu?!
Đỗ Đức Anh
Ở cái tuổi mà lẽ ra đã phải trở thành người tự lập ấy, tôi vẫn như con sóc nâu tung tăng. Lần nào về, nội cũng bảo chỉ thấy tôi cao tồng ngồng mà chẳng khôn ra tẹo nào. Tôi vẫn như xưa, còn nội tôi thì khác nhiều. Tóc nội ngày một giống tóc bà tiên trong những câu chuyện cổ tích ngày xưa nội kể. Nội vẫn nhai trầu như trước.
Đó là thói quen mà tất cả những người già quê tôi không bao giờ bỏ được. Nhìn miệng nội nhai trầu bỏm bẻm, móm mém vẻ khó nhọc, tôi thấy thương nội nhiều. Tôi 32 chiếc răng, nội chỉ còn duy nhất một chiếc. Tôi cao hơn, vai rộng hơn, còn lưng nội còng xuống vì gánh nặng cuộc đời.
Hai mươi tuổi, nội gánh ba tôi chạy giặc trong chiếc thúng cỏn con với vô khối đồ đạc. Năm đó ba còn chưa biết nói. Cả tuổi thanh xuân nội gánh gạo tiếp tế cho bộ đội tận trong rừng. Năm lần bị bắt, nội chọn im lặng trước những trận đòn roi tra khảo của giặc. Giờ nội bảy mươi, vẫn như mấy mươi năm trước, gánh xôi khúc buổi sáng đi khắp nẻo đường làng, gánh rau muống chợ chiều chẳng mấy khi đắt đỏ. Lần nào ba mẹ gửi tiền về để nội tiêu, khỏi vất vả gánh gồng, nội lại bảo: “Để tiền đó cho con bay ăn học”.
oOo
Nói là 12 năm xa quê nhưng mỗi năm một lần, mùa hè năm nào tôi cũng
về thăm nội. Những năm còn nhỏ không ba thì mẹ hoặc cả hai người dắt tôi
về. Lớn rồi thì tự ngược tàu ra Bắc. Tôi thích những ngày được ở bên
nội tận hưởng sự thanh bình của làng quê Bắc bộ, thích ăn nồi cơm nếp
mới nội nấu, thích được ở trần nằm trên chiếc phản bằng gỗ lim đen bóng
mát rượi ngủ trưa. Thường bao giờ tôi cũng có hai mươi phút giả vờ ngủ
rồi ti hí mắt nhìn nội ngồi bên phe phẩy chiếc quạt làm bằng mo cau cho
tôi bớt nóng.Quê nội của tôi còn nghèo lắm, điện mới về đến thị xã thôi, còn cái làng nhỏ bé cách xa huyện này vẫn đèn dầu chờ sáng. Tôi thích đứng thật xa nhìn những con sâu róm đen và to như ngón tay cái bò loe ngoe ở bụi tre sau nhà. Thích nghe con dế kéo bài ca quanh quẩn đống rơm. Tôi muốn được đi chùa làng cùng nội. Ngôi chùa cổ kính, mái ngói nâu cong cong, tường đá rêu phong nằm cạnh gốc đa cổ thụ. Phía trước cửa chùa có một mảnh vườn trồng rất nhiều rau.
Theo lời nội kể thì vào mùa xuân chùa đẹp hơn nhiều vì mảnh vườn của chùa nở vàng hoa cải, cộng thêm sắc hồng của cây đào mà sư cụ trồng trước lúc qua đời. Mỗi lần đến đó, nội ngồi trước Phật Thích Ca Mâu Ni lần tràng hạt, còn tôi thì leo cây đa cùng mấy đứa con nít mà hồi bằng tuổi chúng, tôi cũng thử leo đôi ba lần nhưng bao giờ cũng chỉ leo lên được đến nửa thân cây.
Có lần nội gọi bọn trẻ con lại gửi gắm tôi cho chúng. Nội bảo tôi theo chúng để học bơi, kết quả là sau nửa tháng và vài lần chết hụt và cái bụng trương phình nước, tôi cũng bơi được đến đám sen mà trước đó muốn có vài bông cắm trên bàn thờ ông nội, tôi phải dùng thuyền ra hái.
Hí hửng về khoe nội, nội xoa đầu tôi cười hồn hậu: “Thế cháu muốn nội thưởng gì nào?”. Hỏi thế chứ nội biết món khoái khẩu nhất của tôi là khoai khô bung với đỗ đen. Đó là chưa kể những con muôm muỗm nướng béo ngậy mà tôi mê tít. Cứ năm nào tôi về muộn, khi lúa ngoài đồng đã gặt xong là tôi lại tiếc đứt ruột cái món đặc sản ấy. Nội kể rằng ngày xưa ba tôi cũng thích nhất món này, cả những ngọn đòng đòng ngọt lịm nữa. Có một lần ba ăn trộm đòng đòng ở ruộng bị người ta bắt được.
Về nhà còn bị nội cho một trận nhớ đời. Tôi thì chẳng có cơ hội ấy. Khi lúa vào thì con gái, đồng loạt trổ đòng thì tôi đang ngập đầu ngập cổ với bài vở tận trong Nam. Và khi hè đến, tôi về thì ruộng lúa còn trơ những gốc rạ cuối mùa.
Tôi nhớ mỗi lần mình về, nội hay dắt tôi qua chơi nhà hàng xóm. Nhà hàng xóm có đứa con gái đen nhẻm đen nhèm nhìn tôi với đôi mắt hình dấu hỏi. Nội nói nó là đứa giỏi câu cá nhất làng, hơn cả những thằng con trai cỡ tuổi đó.
Và chắc chắn với tôi, nó là sư phụ. Nội lại nhờ nó dẫn tôi đi câu ở khúc sông chảy qua chân đồi của làng. Chiến lợi phẩm đầu tiên của tôi là một con cá gì chẳng rõ, cũng to to. Đem về đưa nội nấu riêu với chuối xanh, nội bỏ thêm mấy cọng thìa là thơm phức. Tối ấy nội gọi con bé qua nhà ăn cơm. Nó ngại nhưng vẫn qua, xưng “em” và gọi tôi bằng “anh” ngọt xớt. Ừ, theo lời nội thì nó ít hơn tôi một tuổi, gọi bằng anh xưng em cũng phải!
oOo
Nhiều năm sau, khi cả tôi và em đều đã lớn… Mỗi lần tôi về quê thăm
nội là hai đứa lại rủ nhau đi câu trên khúc sông cũ. Bao giờ cũng được
bao nhiêu là cá. Hình như khúc sông ấy chẳng hết cá bao giờ!Có năm tôi về quê nội muộn một chút khi hè đã trôi qua quá nửa, em biên thư cho tôi, những bức thư còn cả mùi cá tanh nồng, mùi bùn ngai ngái, có xác con chuồn chuồn kim em ép trong thư. Em giục tôi về chơi, em nói nội mong tôi nhiều lắm. Và tôi về không biết vì em hay vì nhớ nội? Cũng có thể tôi về vì muốn biết: Em có mong tôi không?!
oOo
Hoa mướp vẫn vàng bến sông ngày tôi trở lại. Nội đón tôi bằng nụ cười
hiền hậu và nồi khoai khô bung ngon tuyệt. Tôi lại được dịp gối đầu vào
lòng nội sau một năm xa cách, nghe nội kể chuyện ngày xưa. Đích tôn của
nội lớn rồi mà cứ hay nũng nịu kiểu trẻ con thế đấy.Khi tôi thiu thiu ngủ, nội hỏi giọng rất khẽ: “Nó lấy chồng, con biết rồi chứ?”. Thấy tôi không đáp, nghĩ rằng tôi đã ngủ nên nội lại lọ mọ đi ngâm gạo nếp chuẩn bị cho nồi xôi khúc sáng mai. Đêm ấy tôi mơ giấc mơ lạ. Giấc mơ có dáng ai quen thuộc trên mặt nước của khúc sông cũ. Sông vàng ánh trăng khuya, có ai đó buông mồi xuống câu, dáng quen nhòe đi như là nước mắt… Thức dậy, tôi giật mình vì đôi mắt ướt. Hình như tôi khóc…!
Trời mờ sương, tôi gánh chõ xôi cùng nội đi khắp đường làng. Tôi 20 tuổi, lưng dài vai rộng nhưng chẳng bằng nội. Tôi mới gánh được nửa đường đã mệt phờ. Tự hỏi mấy mươi năm với cái gánh nặng này, nó đã lấy đi bao nhiêu sinh lực của nội? Đàn bà con gái quê nội quanh năm gồng gánh – lo toan, sẽ có bao giờ được hạnh phúc khi cái nghèo, cái khổ vẫn cứ rịt lấy họ?
Trở về, ngang qua nhà hàng xóm, chẳng dám nhìn vào. Mà cũng có còn ai nữa đâu, dù nhìn vào đã chắc gì bắt gặp một nụ cười quen thuộc – hiền và thương thật thương. Em lấy chồng rồi, cô dâu mười chín tuổi!
Buổi trưa, khi nội còn ngồi ở nhà chờ cơm thì tôi lang thang trên khúc sông cũ. Có mấy đứa nhỏ đang ngồi buông câu. Giỏ của chúng chưa có con cá nào. Chúng bảo tôi: “Sông bây giờ hiếm cá lắm…”. Chợt nhận ra có một lúc nào đấy tôi đã nhầm: “Hình như khúc sông ấy chẳng hết cá bao giờ”.
Tôi đi qua vùng đồi cỏ may, chẳng gặp ai trên ấy. Đồi hoang vắng như chưa từng có dấu chân của tôi và của em nữa. Đến chỗ đám sen, ngần ngại nhìn chiếc thuyền đã mục, lại chẳng dám bơi. Lâu quá rồi tôi không tập nên… quên. Nhớ mùa sen năm ngoái trước lúc lên tàu về lại miền Nam, em tặng tôi cả một ôm sen hồng. Tàu đông người, không có chỗ để nên tôi bỏ bó sen dọc đường. Giờ, chợt tiếc…
Chiều, tôi cùng nội lên chợ với gánh rau muống hơi già vì đã qua đợt mưa rào mà nội hái không kịp. Bất ngờ gặp em trong phiên chợ chiều thưa người. Nhìn giỏ cá của em ít ỏi vài con. Chẳng biết đã bán được nhiều hay chưa hay chỉ có bấy nhiêu thôi? Tôi chào em, câu chào theo đúng phong cách của tôi, thật lòng, nhưng sáo rỗng:
- Em khỏe không? Hạnh phúc chứ?
Em nhoẻn miệng cười mà đôi mắt buồn rười rượi. Rồi em kéo sụp vành nón lá che con mắt bầm tím khi thấy tôi có vẻ để ý đến nó.
Đằng kia, nội đang gọi tôi đến để giới thiệu với mấy chị bán hàng bên cạnh. Khó khăn lắm tôi mới nói được với em câu chào tạm biệt…Tạm biệt em. Tạm biệt một thời vụng dại. Tạm biệt cô bé ngang bướng nhưng dễ khóc nhè vì những chuyện cỏn con. Em vấp cục đá, ngã đau. Ừ, thương! Nhưng tôi sẽ chẳng cõng em về như những ngày xưa cũ. Trời chiều ươm đầy nắng nhạt. Chiều ở quê nội vụt qua nhanh như một cơn gió.
Muộn mất rồi còn đâu?!
Đỗ Đức Anh